Chú thích Công Tôn Thuật

  1. Nay là Hưng Bình, Thiểm Tây
  2. Đời Hán, Tư lệ hiệu úy là quan chức đứng đầu chính sự - quân sự ở 7 quận trung ương (Kinh Triệu Doãn, Tả Phùng Dực, Hữu Phù Phong, Hà Đông, Hà Nam, Hà Nội và Hoằng Nông, ngày nay là nam bộ Hà Bắc, bắc bộ Hà Nam, nam bộ Sơn Tây và đồng bằng Vị Hà thuộc Thiểm Tây), tương tự thứ sử ở châu, tất nhiên thế lực lớn hơn thứ sử rất nhiều. Cuối đời Hán, chức vụ này bị phân hóa thành Thượng thư lệnh, Ngự sử trung thừa,… Đô doãn là quan chức đứng đầu quận quản hạt kinh thành (Tây Hán là Kinh Triệu Doãn, Đông Hán là Hà Nam Doãn, Nam triều đều là Đan Dương Doãn, Bắc Tề là Thanh Đô Doãn, Hậu Chu đến Tùy đều là Kinh Triệu Doãn). Từ đó, Tư lệ hiệu úy bộ, Đô doãn bộ là đơn vị hành chánh. Tư lệ hiệu úy bộ tương đương cấp Châu, phạm vi quản hạt ứng với 7 quận kể trên; Đô doãn bộ tương đương cấp quận, phạm vi quản hạt bao gồm cả kinh thành. Ở đây, Công Tôn Thuật xem Thành Đô là kinh thành, Ích Châu và Thục Quận là 2 cấp hành chánh châu và quận quản hạt kinh thành.
  3. Đời Tần – Hán, Thiết Quan là cơ quan quản lý ngành sắt, từ cấp huyện trở lên đều có; cũng là tên của quan chức quản lý cơ quan này.
  4. Tư trị thông giám, quyển 43
  5. Kinh Xuân Thu của Khổng Tử là bộ biên niên sử ghi chép cố sự của 12 đời quân chủ nước Lỗ (đều là công tước). Xích chế (nghĩa đen là lễ chế đỏ) là thuật ngữ được các nhà nghiên cứu sấm vĩ dùng để chỉ quốc vận nhà Hán. Thượng thư vĩ: Khảo Linh Diệu cho rằng Khổng tử làm Xích chế, nên mới sáng tác Kinh Xuân Thu (Khảo Linh Diệu là một trong 81 thiên sấm tranh (Đồ sấm) được Quang Vũ đế công bố vào năm Trung nguyên đầu tiên (56), được suy ra từ Thượng thư, tức Thượng cổ chi thư).
  6. Theo cách tính thông thường của sử gia phong kiến, nhà Hán từ Cao Tổ đến Bình đế chỉ có 11 đời (bỏ qua 2 vua do Lữ Hậu lập, Lữ Hậu và Xương Ấp vương Lưu Hạ); nếu tính 12 đời thì kể thêm Lữ Hậu.
  7. Lục vận phápQuát địa tượng đều là sấm tranh (Đồ sấm) được suy ra từ Hà Đồ.
  8. Viên thần khế, gọi đầy đủ là Hiếu kinh vĩ: Viên thần khế là sấm tranh được suy ra từ Hiếu Kinh, tức Hiếu kinh vĩ, một trong 81 thiên Đồ sấm được Quang Vũ đế công bố vào năm Trung Nguyên đầu tiên (56), cũng là một trong 36 thiên được suy ra từ Thất kinh, tức Thất kinh vĩ hay Thất vĩ. Ất (乙) ở đây được hiểu là Yết (轧), nghĩa là Gạt đổ, đè bẹp. Chữ Lưu (phồn thể) chiết thành Mão, Kim, Đao, nên "mão - kim" là chỉ họ Lưu.
  9. Ngũ đức là cách gọi khác của Ngũ hành.
  10. Theo Lưu Trân, Duyên ĐốcĐông Quan Hán ký, Quang Vũ đế nói: "Nối Xích là Hoàng vậy; họ Đương Đồ, tên là Cao vậy!" Đương Đồ Cao là ẩn ngữ trong sấm thư đời Hán, nghĩa đen là chỗ cao (Cao) ở trên đường (Đương Đồ). Đầu đời Tam Quốc, Viên Thuật tin rằng tên của mình hợp với ẩn ngữ này; về sau, Đương Đồ Cao được hiểu là nhà Tào Ngụy (theo tự điển Thiều Chửu, chữ Ngụy 魏 nguyên là chữ nguy 巍, có nghĩa là Cao); Bùi Tùng Chi chú giải Trần Thọ - Tam Quốc Chí, Ngụy chí 2, Văn đế kỷ chép: "Thái sử thừa Hứa Chi tâu lên việc phát hiện Sấm vĩ Ngụy thay Hán cho Ngụy vương (tức Tào Phi) rằng: ‘xưa Bạch Mã lệnh Lý Vân dâng lời rằng: Hứa Xương có làn khí hiện ra ở chỗ cao ở trên đường, Đương Đồ Cao ấy rõ ràng ở Hứa.’ Đương Đồ Cao ấy, ‘Ngụy’ vậy!..."